Đức vua Di Lan Đà Di_Lan_Đà_vấn_đạo

Bài chi tiết: Menandros I
Đồng bạc với chân dung Đức vua Di Lan Đà (bên trái) và thần Athena (bên phải). Dòng chữ ΒΑΣΙΛΕΩΣ ΣΩΤΗΡΟΣ ΜΕΝΑΝΔΡΟΥ nghĩa là "Của Đức Vua Menandros, Vua Cứu độ"

Di Lan Đà tức Menandros là một vị vua có thật trong lịch sử, ông là vua của vương quốc Ấn-Hy Lạp, trị vì từ khoảng năm 165/155 TCN đến năm 130 TCN[12]. Ông là người đã thiết lập nên một đế chế lớn ở Nam Á và là một người hộ pháp của Phật giáo. Trong "Di Lan Đà vấn đạo", vua Menandros được giới thiệu như sau:[10]

"Ông người gốc Hy-lạp, là một viên đại tướng lừng danh, vô địch, theo đoàn quân viễn chinh xâm lăng Ấn-độ. Sau khi đã đặt nền thống trị trên một đế quốc rộng lớn, viên thủ lĩnh bị giặc giết, ông lên kế vị làm vua, đóng đô tại Sàgala...Giữ yên bên ngoài, nhà vua lo việc bên trong, chăm lo đến cơm no áo ấm cho muôn dân. Kế hoạch phát triển đất nước, nhà vua chú trọng nông nghiệp, có chính sách khuyến nông đúng đắn và hữu hiệu. Các ngành nghề lao động, thủ công đều được tuyên truyền, vận động, cổ súy nâng cao. Không bao lâu sau, đất nước này sống đời thái bình và thịnh trị, giàu mạnh và hùng cường...Kinh thành của đức vua Mi-lan-đà hưởng phước cực kỳ sung sướng, được ví như Bắc-cu-lưu-châu hoặc như huê viên Alakam Manda ở cõi trời cũng không ngoa vậy. Về quốc độ thì như thế, còn về cá nhân thì ngài có sức học uyên thâm, tài cao chí lớn, lại là người rất đạo đức nên được quần chúng tôn sùng, ngưỡng mộ. (Mi Tiên Vấn Ðáp, Dịch bởi Hòa thượng Giới Nghiêm)

Theo Di-lan-đà vấn đạo thì sau khi hỏi đạo với tôn giả Na-tiên, ông đã truyền ngôi cho con và lui về ẩn cư trong tăng viện, hay nói cách khác là xuất gia, tu học và chứng thánh quả A-la-hán:[13]

" Và sau đó, thỏa thích trong sự khôn ngoan của vị tỳ kheo, ngài giao lại vương quốc cho con trai mình, đức vua Mi-lan-đà lặng lẽ rời bỏ hoàng cung, tìm đường xuất gia, sau đó sống đời không nhà cửa của một sa môn chân chính. Nhờ sự tinh cần, kiên trì tiến tu chỉ tịnh, quán minh; không bao lâu sau, ngài đắc giải thoát bảo cái trắng làm cho tỏ ngộ Niết-bàn, thành bậc A-la-hán vô sanh."

— Di Lan Đà Vấn đạo, bản dịch của Hòa thượng Giới Nghiêm, 2003.

Người ta cho rằng bộ kinh "Di Lan Đà vấn đạo" đã được khẩu tập ít lâu sau khi quốc vương Menandros I qua đời. Thời gian ấy các vua kế vị là nữ hoàng Agathocleia rồi vua Strabo I Soter ở ngôi khoảng 40 năm nữa, trước khi xứ Bactria bị chia cắt thành nhiều vương quốc.[14]